Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013

LIỆT DƯƠNG


Đại Cương

Liệt dương là bệnh của nam glới biểu hiện dương vật không cương hoặc cương yếu. Trong Y văn cổ có sách ghi 'Dương nuy’, ‘Âm nuy’, ‘Dương Vật Bất Cử’.
Theo y học hiện đại, Liệt dương có thể phân làm hai loại: Nguyên phát và thứ phát. Nguyên phát là từ khi lớn lên chưa hề có dương vật cương và phóng tinh do suy sinh dục từ tuổi dậy thì. Liệt dương thể thứ phát có thể phân làm loại do tổn thương thực thể và loại do rối loạn chức năng.
Loại do tổn thương thực thể thường là thứ phát của các bệnh tim, phổi, thận, não, do các bệnh nội tiết như bệnb cường giáp, bệnh của tuyến thuỳ, tuyến thượng thận, bệnh của tinh hoàn, tiểu đường, do các bệnh viêm nhiễm như viêm tuyến tiền liệt, viêm niệu đạo. Bệnh có thể do nhiễm mỡ xơ mạch của phân nhánh hố chậu của động mạch chủ.
Đặc điểm lâm sàng của liệt dương do tổn thương thực thể là bệnh nặng dần, không có hiện tương cương dương vật vào lúc sáng sớm hoặc cương bất kỳ.
Loại do rối loạn chức năng thường do yếu tố tâm thần (mà y học cồ truyền gọi là nguyên nhân “thất tình” như tình cảm lạnh nhạt, buồn phiền, kinh sợ, lo lắng hoặc không tha thiết về tình dục).
Đặc điểm của loại bệnh này là sáng dậy dương vật có cương hoặc cương bất kỳ, lúc cương, lúc không, có thể trị khỏi bằng ám thị, tâm lý liệu pháp, thuốc nam, châm cứu.

Nguyên Nhân

Nguyên nhân gây nên liệt dương có nhiều, cơ sở bệnh lý theo y học cổ truyền có thể qui nạp chủ yếu: Thận hư, thấp nhiệt, khí trệ, huyết ứ.
Thận hư bao gồm khí huyết bất túc, nặng thì mệnh môn hoả suy.
Thấp nhiệt thường do ăn nhiều chất béo ngọt hoặc nghiện rượu sinh thấp, sinh nhiệt hoặc do bệnh nhiễm.
Khí trệ do tình chí thất thường làm cho can khí bị uất kết. Can tàng huyết, chủ cân mạch, mạch lạc không thông, dương vật thiếu nuôi dưỡng sinh ra chứng liệt dương.
Khí trệ và huyết ứ thường có quan hệ nhân quả, ảnh hưởng lẫn nhau.

Biện Chứng

Thường luận trị theo các thể bệnh thường gặp sau:
1- Thận Hư: Mệt mỏi, đau lưng, mỏi gối, sắc mặt xạm đen, hoa mắt, ù tai, boạt tinh hoặc xuất tinh sớm (tảo tinh, tiết tinh), lưỡi sắc nhợt, mạch Trầm Tế hoặc Trầm Nhược, vô lực.
Điều trị: Ích thận, cố tinh, bổ khí huyết. Dùng bài Tả Quy Hoàn gia giảm (Cảnh Nhạc Toàn Thư): Câu kỷ tử 160g, Quy bản giao 160g, Thỏ ty tử 160g, Lộc giác giao 160g, Sơn dược 160g, Thục địa 320g, Ngưu tất 120g, Sơn thù 120g.
2. Khí Trệ Huyết Ứ: Tinh thần bứt rứt, ngực sườn đầy tức, tính tình nóng nảy, sắc mặt xạm, môi tím, lưỡi có điểm ứ huyết sắc tím, mạch Huyền hoặc Sáp.
Điều trị: Hành khí hoạt huyết hoá ứ, dưỡng can thận. Dùng bài Huyết Phủ Trục Ứ Thang Gia Giảm (Y Lâm Cải Thác): Sài hồ, Cam thảo đều 4g, Cát cánh, Xuyên khung đều 6g, Chỉ xác 8g, Đào nhân 16g, Đương quy, Hồng hoa, Ngưu tất, Sinh địa đều 12g.
3. Thấp Nhiệt: Bụng dưới đau âm ỉ, nước tiểu vàng, hoặc âm nang (bìu đái) lở ngứa, lưỡi đỏ, rêu vàng dày nhớt, mạch Trầm Sác. Thể này ít gặp, phần lớn đến khám có triệu chứng viêm nhiễm.
Điều trị: Thanh lợi thấp nhiệt, bổ ích can thận. Dùng bài Tri Bá Địa Hoàng Hoàn (Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết): Đơn bì 120g, Sơn dược 160g, Trạch tả 120g, Hoàng bá 80g, Sơn thù 160g, Tri mẫu 80g, Thục địa 320g, Phục linh 120g.

CHÂM CỨU

1- Châm Cứu Học Thượng Hải: Ôn bổ Mệnh Môn.
Dùng Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Lãi Câu (C.5).
. Tâm Tỳ suy: thêm Thần Môn (Tm.7).
. Mệnh Môn Hoả suy: thêm Mệnh Môn (Đc.4)
Ý nghĩa: Lãi Câu là huyệt Lạc của kinh Túc Quyết Âm, mạch của nó kết ở dương vật; Mệnh Môn thuộc mạch Đốc là chỗ ở của Mệnh Môn (Kỳ Phủ Mệnh Môn Chi Hoả), hợp với Quan Nguyên để làm tăng nguyên dương; Thần Môn là huyệt Nguyên của kinh Tâm, phối Tam Âm Giao để điều tiết Tâm Tỳ.
2- Dương Lăng Tuyền (Đ.34) + Khí Hải + Tam Âm Giao (Ty.6) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Đại Lăng (Tb.7) (Châm Cứu Đại Thành).
3- Cứu Mệnh Môn (Đc.4) + Thận Du (Bq.23) + Khí Hải (Nh.6) (Loại Kinh Đồ Dực).
4- Mệnh Môn (Đc.4) + Thận Du (Bq.23) + Khí Hải (Nh.6) + Nhiên Cốc (Th.2) + Dương Cốc (Ttr.5) [đều cứu] (Thần Cứu Kinh Luân).
5- Thận Du (Bq.23) + Khí Hải (Nh.6) (Châm Cứu Phùng Nguyên).

Chữa chứng đầy bụng khó tiêu bằng xoa bóp, bấm huyệt


Đầy bụng khó tiêu là triệu chứng cảm thấy no hơi, nặng bụng, chướng bụng, có khi buồn nôn và nôn. Chứng này có thể chỉ là một rối loạn chức năng khi mà bệnh nhân khám và  xét nghiệm không phát hiện ra điều gì bất thường hoặc là triệu chứng của 1 bệnh thực thể về tiêu hoá. Nguyên nhân chủ yếu gây bệnh là do ăn uống không điều độ, ăn nhiều thức ăn chua cay; do lạm dụng một số chất kích thích như rượu, cà phê, thuốc lá; do căng thẳng thần kinh, bị stress.
Trong YHCT, biểu hiện của chứng bệnh này thuộc các chứng “bĩ mãn” , “vị quản thống” . Nguyên nhân phần lớn là do tỳ vị vận hóa không tốt làm cho ăn uống kém, khó tiêu, hoặc tình trí bị kích thích, can khí uất trệ khắc tỳ gây tổn thương chức năng tỳ vị.
Hiện nay ngày càng nhiều bệnh nhân trẻ bị chứng bệnh này do lối sống không điều độ, ăn uống thất thường hoặc do áp lực trong công việc.
Trẻ em cũng hay bị đầy bụng, khó tiêu kèm theo các biểu hiện: khó chịu, khóc, lười ăn, bỏ ăn, bụng chướng hơi, buồn nôn hoặc nôn, đi ngoài phân lỏng.
Xoa bóp bấm huyệt có tác dụng tốt đối với chứng bệnh này do có khả năng làm tăng cường nhu động của dạ dày, ruột và cải thiện chức năng tiêu hóa; khi chức năng tiết dịch tiêu hóa kém, dùng kích thích mạnh để tăng tiết dịch. Khi chức năng tiết dịch tiêu hóa quá mạnh, dùng kích thích vừa và nhẹ để giảm tiết dịch.
Trong thai kỳ có nhiều thay đổi về hoạt động của các tuyến nội tiết ở người phụ nữ cũng như sự phát triển của thai trong bụng gây chèn ép vào cơ quan tiêu hóa gây đầy bụng, khó tiêu, ợ nóng, nôn ợ. Đối với những thai phụ này, xoa bóp bấm huyệt là một lựa chọn đúng đắn, cải thiện được các triệu chứng nêu trên.
Cách tiến hành:
-         Xoa vùng bụng:
+ Các huyệt: trung quản (giữa đường nối từ mũi kiếm xương ức đến rốn), quan nguyên (dưới rốn 3 thốn, trên bờ xương mu 2 thốn), khí hải (từ rốn thẳng xuống 1, 5 thốn), thiên khu(từ rốn đo ngang ra 2 thốn)
+ Thủ thuật: miết, ấn, phân, xoa
+ Thao tác: 1. Người bệnh nằm ngửa, miết từ trung quản đến rốn; 2. Xoa bụng: một tay nắm lại, tay kia úp lên trên để tăng áp lực, xoa vòng quanh rốn theo chiều kim đồng hồ 10 - 15 lần , ngược lại cũng từ 10 - 15 lần, 3. Day các huyệt: trung quản, quan nguyên, khí hải, thiên khu, 4. Phân xoa bụng.
-         Ngồi xếp bằng tròn bấm các huyệt có tác dụng toàn thân: hợp cốc (huyệt ở chỗ lõm giữa ngón cái và ngón trỏ, đặt đốt 2 ngón cái bàn tay bên đối diện lên hố khẩu bàn tay bên này, đầu ngón cái ở đâu thì huyệt nằm tương ứng tại chỗ đó)(đối với phụ nữ có thai không dùng huyệt này), túc tam lý (dưới mắt gối ngoài  3 thốn, cách lồi củ trước xương chày 1 khoát ngón tay, công tôn(ở chỗ lõm bờ dưới trước đáy xương bàn chân thứ nhất, nơi tiếp giáp mu bàn chân và gan bàn chân). Bấm mỗi huyệt từ 30 giây đến 1 phút
-         Liệu trình xoa bóp: tiến hành hàng ngày từ 1 đến 2 lần vào buổi sáng hoặc buổi tối.
Đầy bụng khó tiêu do ăn uống ảnh hưởng nhiều, để phòng chứng bệnh này chúng ta cần chú ý đến chế độ sinh hoạt ăn  uống như  ăn ngủ có giờ giấc, tránh các yếu tố gây kích thích như stress, uống rượu, hút thuốc. Khi ăn nên nhai chậm, nhai kỹ và ăn vừa đủ no, không nên ăn quá no. Hạn chế dùng các loại nước ngọt có gas hay những thức ăn chua cay nhiều hoặc có nhiều dầu mỡ; nên ăn nhiều chất xơ (có nhiều trong rau và hoa quả) giúp hỗ trợ tiêu hoá. Gừng cũng là một thức ăn rất tốt đối với chứng bệnh này, có thể dùng ở dạng tươi hoặc bột khô. Tập thể dục đều đặn có thể làm tăng cường sức khỏe, lưu thông khí huyết, cải thiện chức năng tiêu hóa.
Huyệt túc tam lý(dưới mắt gối ngoài  3 thốn, cách lồi củ trước xương chày 1 khoát ngón tay, khi úp lòng bàn tay vào giữa đầu gối, đầu ngón tay giữa chạm vào xương ống chân, từ đó hơi xịch ra phía ngoài 1 ít là huyệt) có tác dụng: ích khí kiện t, điều trung khí, hóa thấp trừ đàm, thông kinh hoạt lạc, hành khí hoạt huyết, tăng cường miễn dịch. Châm cứu bấm huyệt ở huyệt này có thể điều trị: đau dạ dày, nôn mửa, tiêu hóa kém, táo bón, ruột viêm, chi dưới yếu liệt, bệnh thuộc hệ tiêu hóa, kích ngất, cơ thể suy nhược, thần kinh suy nhược. Hàng ngày day vào huyệt này 1-3 phút có tác dụng kích thích tiêu hóa, ăn ngon, đặc biệt đối với trẻ em và người có tuổi.
Đối với những người mắc chứng bệnh này, sau khi áp dụng các biện pháp về chế độ ăn uống, sinh hoạt, tập luyện, tự xoa bóp bấm huyệt như đã nêu ở trên mà chưa có dấu hiệu cải thiện thì nên đi khám thêm bác sĩ để xác định có bệnh khác kèm theo hay không

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

Tứ chẩn


Tứ chẩn
I/ VỌNG CHẨN (nhìn)
          Nhìn để quan sát thần, sắc, hình thái, mặt, mũi, môi, lưỡi,…. Của người bệnh để biết được tình hình bệnh tật bên trong cơ phản ánh ra bên ngoài. Đông y rất chú trọng xem các bộ phận ở mặt và lưỡi vì có lien quan nhiều đến bệnh tật tại cq tạng phủ bên trong.
1. Vọng thần (xem thần).
          Thần sự hđộng về tinh thần và ý thức, là nơi thể hiện ra bên ngoài sự hoạt động của các tạng phủ bên trong cơ thể. Khi xem thần cần xác định:
- Còn thần: thì mắt sáng, tỉnh táo nên bệnh nhẹ, chính khí chưa bị tổn thương nhiều, công năng của caccs tạng phủ chưa bị suy yếu, tiên lượng bệnh còn tốt.
- Mất thần: không có thần thể hiện tinh thần mệt mỏi, thờ ơ lãnh đạm, nói không có sức (hoặc biểu hiện của các tr/ chứng trong hôn mê )… là bệnh nặng chính khí đã suy yếu, khi điều trị bệnh rất khó khăn và lâu dài, tiên lượng dè dặt.
* Chú ý có một số bệnh nhân mãn tính bệnh lâu ngày, cơ thể quá suy yếu, nhưng đột nhiên tinh thần tỉnh táo, muốn ăn uống, gò má đỏ, thích nói…. Đó là biểu hiện của một tình trạng bệnh tiến triển xấu đi, trong YHCT cho đó là hiện tượng “hồi quang chếu nghịch hay phản quang), chính khí muốn thoát. Vì thông thường bệnh nặng mãn tính khi phục hồi phải phục hồi từ từ đây mới đúng quy luật sinh lý bình thương trong bệnh tật, nên khi có hiện tượng phục hồi nhanh là dấy hiệu khác thường ( bệnh lý) nên tiên lượng thường xấu. Ngoài ra chúng ta phải quan sát tổng thể của bệnh tật để có kết luận chính xác. Cần quan sát thêm tình trạng tinh thấn như u uất, nói cười huyên thuyên, chán ăn, hoang tưởng, mê sảng hay lơ mơ ý thức, hôn mê… để có chẩn đoán bệnh thuộc về tạng nào trong cơ thể ( tâm, can, tỳ,…)
2. Vọng sắc
          Thường xem sắc ở mặt, người BT sắc mặt tươi nhuận, khi có bệnh thường có thể biến đổi như sau:
a/ sắc đỏ: do nhiệt, cần phân biệt sắc đỏ do thực nhiệt hay hư nhiệt:
          + Thực nhiệt: thì toàn mặt đỏ đều như trong bệnh sốt nhiễm trùng, say nắng..
          + Hư nhiệt: thường hai gò má đỏ, sốt về chiều, gặp trong bệnh mãn tính lâu ngày, trong các bệnh lao (lao phổi…) do âm hư sinh  nội nhiệt
b/ Sắc vàng: do hư, do thấp. Nguyên do tại tỳ mất chức năng kiện vận, vậy thủy thấp không được vận hóa, khí huyết giảm sút, da không được nuôi dưỡng vậy mà có tr/ chứng da màu vàng. Chứng vàng da (hoàng đản) được chia ra:
          + Hoàng đản mà sắc tươi sáng là do thấp nhiệt (hoàng đản nhiễm trùng)
          + Hoàng đản mà sắc vàng ám tối là do hàn thấp (hoàng đản do ứ mật, tan huyết)
          + Sắc mặt hơi vàng do tỳ hư
c/ sắc trắng: do hư, do hàn, do mất máu
- Sắc vàng hơi phù là thận dương hư. Bệnh cấp tính đột nhiên sắc mặt trắng bệch là dương khí sắp thoát ( choáng…….). Đau bụng  mà sắc  mặt trắng  do hàn nhiều ( bệnh cấp cứu ngoại khoa như thủng dạ dầy, viêm ruột thừa, túi mật, viêm tụy cấp..)
d/ Sắc đen: do hàn, do đau, do thủy, do thận hư
- Dương khí hư gây chứng hàn, hàn ứ không thông gây chứng đau. Thủy thấp không vận hóa được. thận hư tinh khí suy kiệt, đều gây sắc mặt đen
e/ Sắc xanh: do hàn, do đau, do ứ huyết, do kinh phong
- Sắc xanh do khí huyết không thông, kinh mạch bị trở trệ mà thành. Hàn gây khí huyết không thông, không thông thì gây đau và huyết ứ. Phong hàn gây đau đầu, lý hàn gây đau bụng, đau nhiều sắc mặt trắng bệch mà xanh, môi miêng xanh tím là huyết ứ ( suy tim), trẻ em sốt cao, sắc mặt xanh là sắp có kinh phong ( co giật)
3. Vọng hình thái ( hình dáng, tư thế, cử động).
- Xem hình thái để biết được tình trạng khỏe hay yếu của 5 tạng:
          + Da lông khô là phế hư
          + Cơ nhục gầy, nhẽo là tỳ hư
          + Xương yếu, răng lung lay chậm biết đi, liền thóp, chậm mọc tóc là thận hư
          + Chân tay run, co quắp là can hư
          + Tinh thần mệt mỏi.. là tâm hư
Người béo ăn ít, thở gấp là tỳ hư đàm thấp. người gầy mau đói là vị hỏa
- Xem tư thể cử động của bệnh nhân để biết bệnh thuộc âm hay dương ( kích động, hay nói, nằm quay ra ngoài…)
4. Vọng mũi (xem mũi)
- Đầu mũi xanh có đau bụng
- Đầu mũi hơi đen trong ngực có đàm ẩm
- Đầu mũi sắc trắng là trong cơ thể khí hư hoặc các trường hợp mất máu
- Đầu mũi màu vàng cơ thể có chứng thấp
- Đầu mũi sắc đỏ thuộc phế nhiệt
- Cánh mũi phập phồng do phế nhiệt (gặp trong viêm phổi, phế quản, hen xuyễn
- Chảy nước mũi do ngoại cảm phong hàn; nước mũi đục do ngoại cảm phong nhiệt
5. Vọng mục (xem mắt)
 Lòng trắng:
- Đỏ bệnh ở tâm
- Trắng bệnh ở phế
- Xanh bệnh ở can
- Vàng bệnh ở tỳ
- Đen bệnh ở thận
Mắt:
- Đỏ sưng đau do can hỏa phong nhiệt
- Mi mắt (n/mạc) nhạt màu do thiếu máu
- Mắt quầng thâm do tỳ hư
- Đỏ khóe mắt do tâm hỏa
6. Vọng môi
- Môi:
- Đỏ hồng khô là nhiệt
- Trắng nhợt là huyết hư
- Xanh tím là ứ huyết
- Hồng tưới là do âm hư hỏa vượng
- Xanh đen do hàn
- Lở loét do vị nhiệt
7. Vọng da
- Da phù thũng: ấn vào vết lõm còn là thủy thấp; ấn vào vết lõm nổi nhanh là do khí trệ
- Vàng da: có sốt kèm sắc da vàng tươi sang là dương hoàng; không sốt sắc da vàng tối là âm hoàng
- Ban chẩn: ban là đám nhỏ nổi trên mặt da, chẩn là những mụn nổi cao trên mặt da.
          + Ban chẩn tươi nhuận là chính khí chưa hư
          + Ban chẩn tím là nhiệt thịnh
          + Ban chẩn nhạt xám là chính khí đã hư
8. Vọng lưỡi
- Xem lưỡi để biết được tình trạng hư thực của tạng phủ, khí huyết, tân dịch trong con người, cùng với sự nông sâu diễn biến nặng nhẹ của bệnh tật.
- Xem lưỡi chính tại 2 bộ phận rêu lưỡi và chất lưỡi; chất lưỡi là tổ chức cơ, mạch của lưỡi, rêu lưỡi là chất phủ trên bề mặt của lưỡi.
- Lưỡi người bình thường: chất lưỡi mềm mại linh hoạt, hoạt động tự nhiên, màu hơi hồng, rêu lưỡi mỏng trắng hoặc ít rêu, không khô, ướt vừa phải.
- Khi có bệnh: chất lưỡi thay đổi về màu sắc, hình dáng và cử động thông qua đó phản ánh tình trạng hư thực của tạng phủ, thịnh suy của khí huyết; rêu lưỡi thay đổ về màu sắc và tính chất thông qua đó phản ánh vị trí nông sâu, tính chất của bệnh tật và sự tiêu trưởng của chính khí và tà khí
a/ Xem chất lưỡi.
- Xem màu sắc:
          + Màu nhạt: nếu hơi trắng thuộc hàn chứng, hư chứng, dương khí suy kém, khí huyết không đầu đủ
          + Màu đỏ: Thuộc nhiệt chứng, có thể do lý thực nhiệt hoặc do hư nhiệt ( âm hư hỏa vượng)
          + Màu đỏ giáng: Do nhiệt thịnh, tà nhiệt đã vào phần dinh và huyết; đối với bệnh nhân mãn tính do âm hư hỏa vượng, tân dịch bị hao tổn giảm sút nhiều.
          + Màu xanh tím: bệnh do hàn và nhiệt, có những tr/ chứng kèm theo khác nhau: do nhiệt chất lưỡi xanh tím nhiều, lưỡi khô ít tân dịch; do hàn và ứ huyết chất lưỡi xanh tím, ướt và nhuận, nêu ứ huyết kèm theo các nốt ban điểm ứ huyết
- Xem hình dáng của lưỡi:
          + Phù nề: thuộc thực chứng và nhiệt chứng; hơi nề hai bên có hằn răng thuộc hư chứng, hư hàn hoặc do đàm thấp kết lại tràn lên.
          + Sưng to: Màu trắng nhạt và sưng to do tỳ thận dương hư; chất lưỡi hồng đỏ và sưng to do thấp nhiệt bên trong hay nhiệt độc mạnh
          + Mọng  nhỏ: chất lưỡi đạm (nhạt) nhỏ do tâm tỳ hư, khí huyết hư; chất lưỡi hồng giáng mọng nhỏ do âm hư nhiệt thịnh, tâm dịch hao tổn, dấu hiệu của bệnh nặng
          + Phì đại: đầu lưỡi phì đại thuộc tâm hỏa thịnh; hai bên phì đại thuộc can đởm hỏa thịnh; giữa lưỡi phì đại là trường vị nhiệt thịnh
- Xem cử động của lưỡi:
          + Mềm yếu, không cử động tự do: bệnh cũ lâu ngày chất lưỡi đạm nhạt mà liệt là khí huyết đều hư; lưỡi đỏ giáng mà liệt do âm hư cực độ; Bệnh mới mắc lưỡi khô hồng mà liệt là do nhiệt tổn thương đến phần âm
          + Cứng không cử động co ra vào được:  gặp trong các trường hợp hôn mê do các nguyên nhân, theo YHCT thì nguyên do bệnh nhiệt, nhiệt nhập tâm bào (bệnh  truyền nhiễm sốt cao, bệnh trúng phong,
          + Lưỡi lệch: do trúng phong
          + Lưỡi run: do tâm, tỳ, khí, huyết hư nhược
          + Lưỡi rụt ngắn: là tr/ chứng bệnh nguy hiểm, nếu lưỡi rút nhưng nhuận là do hàn ngưng trệ ở cân mạch, nêu lưỡi phù to mà ngắn do đàm thấp, nếu lưỡi hồng khô là do sốt cao tổn thương tân dịch
          + Lưỡi thè: lưỡi thè ra ngoài la do tâm tỳ có nhiệt, hoặc trong các bệnh bẩm sinh chậm phát dục ( não úng thủy, chứng đần độn) trẻ em.
b/ Xem rêu lưỡi.
- Xem mầu sắc rêu:
          + Rêu trắng:
          + Rêu vàng
          + Rêu xám đen
- Xem tính chất của rêu lưỡi:
          + Rêu hày hay mỏng
          + Rêu khô hay ướt
          + Rêu dinh và hôi
9. Vọng cử động tứ chi

II/ VĂN CHẨN (nghe và ngửi)
1. Nghe âm thanh.
a/ Tiếng nói:
+ Tiếng nói nhỏ, thểu thào không ra hơi thuộc hư chứng
+ Tiếng nói sang sảng thuộc thực chứng
+ Mê sảng nói nhiều thuộc thục nhiệt
+ Nói ngọng do phong đàm, trúng phong
+ Nói một mình (độc thoại) thuộc tâm thần hư
b/ Tiếng thở:
          + Thở to là thực chứng gặp trong các bệnh cấp tính ( nhiêm khuẩn đường hô hấp gđ đầu ….)
          + Thở nhỏ ngắn, gấp, nông là hư chứng gặp trong các bệnh mãn tính, NK nặng suy hô hấp….
c/ Tiếng ho: ho có đờm là thấu; ho không đờm là khái; ho khan bệnh nội thương thuộc phế âm hư. Bệnh cấp tính mà khản tiếng do phế thực nhiệt, ho lâu ngày mà khản tiếng là phế âm hư. Ho hắt hơi sổ mũi do cảm mạo phong hàn; ho từng cơn kèm nôn là ho gà.
d/Tiếng nấc:  Nấc lien tục tiếng to và có sức là do thực nhiệt, nấc yếu đứt quãng là do hư hàn. Nấc do vị nghịch lên nguyên nhân do ăn uống, cảm mạo phong hàn tự nhiên bệnh cũng tự khỏi. Đối với những bệnh nhân lâu ngày vị khí yếu, thấy tr/ chứng nấc cần chú trọng theo dõi sát vị đó có thể là một dấu hiệu tiến triển xấu của bệnh tật ( kích thích RLTK giao cảm), YHCT cho vị khí rối loạn muốn tuyệt
2. Ngửi mùi vị: ngử mùi vị của hơi thở của mũi mồm và các chất thải ra như đờm, phân, nước tiểu để người thấy thuốc có thể phân biệt được tình trạng hư thực, hàn nhiệt của bệnh.
- Phân tanh, hôi, loãng do tỳ hư
- Nước tiểu khai đục do thấp nhiệt
- Đại tiện phân chua, thối do tích nhiệt thực tích
- Đại tiện phân khăm thối do tỳ hư, huyết nhiệt…

III/  VẤN CHẨN (hỏi bệnh)
          Hỏi người bệnh hoặc người nhà về các chứng trạng hiện tại, quá trình xuất hiện bệnh, điều trị bệnh, hỏi nghề nghiệp, hoàn cảnh bệnh nhân….
1.     Hỏi hàn nhiệt
2.     Hỏi mồ hôi
3.     Hỏi các bộ phận cơ thể lq như đầu, mình, ngực, bụng, các xương khớp.
4.     Hỏi ăn uống và khẩu vị
5.     Hỏi giấc ngủ
6.     Hỏi đại tiểu tiện
7.     Hỏi kinh nguyệt, khí hư và thai sản
 IV/  THIẾT CHẨN (xem mạch và sờ nắn)
1. Xem mạch
1.1. Mục đích: Là để biết được tình trạng thịnh suy của tạng phủ, vị trí nông sâu và tính chất hàn nhiệt của bệnh tật
1.2. Vị trí, nơi xem mạch: Tại ĐM quay ở cổ tay tại vị trí thốn khẩn, ĐM đùi, ĐM chày sau, ĐM mu chân, ĐM thái dương nông. Hay dung nhất là ĐM quay
          Tại thốn khẩu nơi ĐM quay đi qua, là vị trí GP để xem mạch được chia thành 3 bộ là bộ thốn, bộ quan, bộ xích. Bộ quan tương ứng với vị trí GP mỏm châm trụ kéo ngang ra, tiếp đó vị trí bộ thốn ở dưới và bộ xích ở trên bộ quan tính theo thứ tự từ khủy tay đến cổ tay. Tay phải thuộc khí và tay trái thuộc huyết
Bộ
Tay trái (thuộc huyết)
Tay phải (thuộc khí)
Thốn
Tâm – tiểu trường
Phế - đại trường
Quan
Can – đởm
Tỳ - vị
Xích
Thận âm – bàng quang
Thận dương – tam tiêu
                   Bảng diễn giải vị trí tạng phủ tương quan các bộ mạch
1.3. Cách xem mạch: 
- Chuẩn bị: ( nên xem vào buổi sang, lúc chưa ăn gì là tốt nhất)
          + Cho người bệnh nghỉ ngơi 15’ trước khi xem mạch, có thể nằm hoặc ngồi nghỉ
          + Thầy thuốc: rửa tay xạch, lau khô hoặc làm ấm bàn tay trước khi xem mạch, tác phong đàng hoàng, nghiêm túc
- Tư thế:
+ Người bệnh để bàn tay ngửa và thoải mái nhất.
+ Người thấy thuốc ngồi đối diện bệnh nhân. Tư thể thỏa mái nhưng phải nghiêm túc, đúng tác phong   
- Phương pháp & cách tiến hành:
+ Thầy thuốc dùng 3 ngón tay: ngón trỏ, ngón giữa, ngón nhẫn đặt vào vị trí mạch tại thốn khẩu ( đường đi của ĐM quay), ngón giữa của thầy thuốc tương ứng với bộ quan, ngón trỏ tương ứng bộ thốn, ngón nhẫn tương ứng với bộ xích. Tùy theo hình dáng người bệnh cao hay thấp, nhỏ hay lớn mà tay thầy thuốc đặt thưa hay khít lại. Tay phải của người thầy thuốc xem tay trái của người bệnh và ngược lại tay trái thầy thuốc xem tay phải người bệnh.
+ 3 mức độ ấn mạch: Thượng án là ấn nhẹ mà thấy mạch đập, dạng mạch tiêu biểu là mạch phù; Trung án là ấn vừa phải thấy mạch đập, ấn sâu sát xương mới thấy mạch đập là hạ án
+ 2 cách xem (tổng khản và đơn khản): Xem chung cả 3 bộ gọi là tổng khán để nhận định tình hình chung, đây là cách thồng thường hay sử dụng nhất. Xem từng bộ vị gọi là đơn khán hay vi khan, để đánh giá tình hình chi tiết từng tạng phủ. Trong khám bệnh thường kết hợp cả hai cách xem, trước là tổng khán sau là đơn khan.
1.4. Các hiện tượng(dạng) về mạch
a/ Mạch bình thường:
- Là mạch đập ở cả 3 bộ, mạch đi không phù không trầm, mạch đi hòa hoãn, điều hòa có lực. Tần số người lớn 70 – 80ck / phút, trẻ em nhịp mạch theo tháng tuổi, thường 120 – 140 CK/ phút, 6 tuổi 90 – 110ck/ phút, Thể tạng, giới, tuổi, tinh thần cũng có lq đến dạng mạch:
+ Thanh niên mạch đập hữu lực, người già và người yếu mạch đập yếu hơn, mạch phụ nữ yếu hơn mạch nam giới. người cao mạch dài hơn người thấp lùn, người gầy mạch hơi phù, người béo mạch hơi trầm.
+ Thời tiết khí hậu cũng có tác động đếm dạng mạch: mùa xuân mạch đi hơi huyền; mùa hạ mạch hơi hồng; mùa thu mạch hơi phù; mùa đông mạch hơi trầm.
- Người xưa nói mạch bình thường là mạch có vị khí, có thần và có gốc:
+ “vị khí là gốc của con người”, nên mạch có vị khí là mạch hòa hoãn, điều hòa, là mach thuận (mạch sinh lý), không có vị khí là mạch nghịch (mạch bệnh lý), dấu hiệu này dung để đánh giá tình trạng và tiên lượng bệnh.
+ Mạch có thần là mạch có lực
+ Mạch có gốc: thận khí là gốc của con người, mạch xích là gốc của mạch, nên mạch xích là nơi biểu hiện của thận khí gốc của con người, vậy mạch BT là mạch xích hữu lực. nên khi có bệnh hai mạch quan thốn mất, nhưng mạch xích còn thì tiên lượng bệnh còn tốt chưa nguy hiểm.
b/ Mạch khi có bệnh:
          Khi có bệnh thì mạch có thể thay đổi về vị trí nông sâu, về tốc độ nhanh chậm, về cường độ có lực hay không có lực, có quy luật hay không có quy luận (nhịp mạch đều hay không), có dạng mạch kết hợp nhiều tính chất mạch ở  trên gọi là khiêm mạch.  Có sách ghi 28 loại mạch. Tài liệu này ghi 19 loại mạch:
* Theo vị trí nông sâu của mạch
1. Mạch phù: là mạch sờ nhẹ tay thấy mạch, ấn xuống hơi giảm nhưng không rỗng mạch.
- Chủ bệnh: Tại biểu
- Dạng mạch:+ Phù hữu lực là biểu thực; phù sác là biểu nhiệt
                    + Phù vô lực là hư chứng, nguyên do âm hư ( hư dương phù ra ngoài)
2. Mạch trầm: ấn mạnh tay thấy mạch đập (mạch đập xát xương).
- Chủ bệnh: bệnh thuộc lý
- Dạng mạch: + Trầm hữu lực là lý thực
                      + Trầm vô lực là lý hư
* Theo tốc độ của mạch
3. Mạch sác: là mạch đập nhanh 80 - 90 lần/phút là mạch đới sác; trên 90 lần / phút là mạch sác
- Chủ bệnh thuộc về nhiệt, mạch sác hữu lực là thực nhiệt, sác vô lực là hư nhiệt, phù sác là biểu nhiệt, trầm sác là lý nhiệt
4. Mạch trì là mạch đập chậm dưới 60 lần/ phút
- chủ bệnh: chứng hàn: mạch trì hữu lực là thực chứng do bị lạnh; Mạch trì vô lực thuộc chứng lý hàn (dương hư).
* Theo cường độ của mạch
5. Mạch hư: là cả ba bộ mạch không cơ lực, ấn thấy rỗng mạch
- chủ bệnh thuộc chứng hư do khí huyết hư
6. Mạch thực: Cả ba bộ mạch đều có lực, gọi là mạch hữu lực
- Chủ bệnh: thực chứng, do tà khí thịnh nhưng chính khí chưa suy
7. Mạch hoạt: Mạch đi lại lưu lợi, trơn như hòn bi lăn trong đĩa
- Chủ bệnh có đàm, thục trệ và thực nhiệt (tà khisungr trệ).
- Phụ nữ mang thai mạch cũng hoạt nhưng thường là hoạt động và sác
8. Mạch sáp: Mạch đi khó khăn, không lưu lợi, cảm giác như sáp sít.
- Chủ bệnh tinh hao, huyết kiệt, thiếu máu, khí trệ huyết hư (không nhu nhuận kinh mạch)
9. Mạch hồng: mạch đi cuồn cuộn như song, đến mạnh mà đi nhẹ
- Chủ bệnh: chủ các bệnh thuộc nhiệt thịnh, mạch hồng còn có thể thấy trong các trường hợp do nhiệt làm mất nước gây âm hư và dương vượt ra ngoài
10. Mạch đại (mạch to)
- Chủ bệnh:
          + Mạch đại có lực là tà khí thịnh
          + Mạch đại không có lực là hỏa bốc mà gây âm hư, nên hư dương bốc ra ngoài. Cần phân biệt một dạng mạch đại nữa thuộc các mạch không có quy luật
11. Mạch tế: hay còn gọi là mạch tiểu, là loại mạch nhỏ nhưng còn bắt được
- Chủ bệnh: do âm hư và huyết hư là chính cũng có thể do thấp tà sinh ra
12. Mạch vi: Là mạch rất nhỏ vaf rất yếu khó bắt, có lúc không thấy khó đếm mạch
- Chủ bệnh âm dương khí huyết đều hư; chứng thoát dương ( trụy mạch choáng)
* Theo biên độ mạch
13. Mạch nhu: là mạch đi phù nhỏ và mềm
- Chủ bệnh thuộc chứng hư (khí huyết – âm , dương, thân hư, tinh khô huyết kiệt)
14. Mạch huyền: Mạch đi ngay thẳng mà dài, căng như sợi dây đàn
- Chủ bệnh thuộc can đởm, bệnh sốt rét,  chứng đau đớn, chứng đàm ẩm
+ Huyền sác là thực nhiệt; huyền trì là hàn chứng; huyền hoạt là đàm ẩm; huyền khẩm là các chứng đau do ứ huyết..
15. Mạch khẩn: Mạch đi khẩn trương có lực và giống như dây thừng vặn xoắn
- Chủ bệnh: chứng hàn, chứng đau đớn, ứ đọng đồ ăn
16. Mạch khâu: Mạch phù nhưng mạch rỗng bên trong như cọng hành
- Chủ bệnh chứng thương âm (mất máu và mất nước)
* Các  dạng mạch không theo quy luật
17. Mạch xúc: Mạch nhanh cấp có lúc dừng lại không có quy luật
- Chủ bênh:
          + Mạch xúc hữu lực chủ dương thịnh, thực nhiệt. khí huyết đàm ẩm thức ăn trở trệ
          + Mạch tế xúc vô lực là chứng hư thoát
18. Mạch kết: Mạch đến chậm có lúc dừng lại không có quy luật.
- Chủ bệnh: âm thịnh khí kết. hàn đàm ứ huyết, khí uất không điều hòa thường thấy mạch kết.
19. Mạch đợi: mạch nửa chừng dùng lại có quy luật nhất định
- Chủ bệnh khí huyết hư nhược, chứng phong gây đau đớn
          Khiêm mạch (kết hợp mạch) và chủ bệnh
STT
CÁC LOẠI MẠCH
CHỦ BỆNH
1
Phù khẩn
Chứng biểu hàn, chứng đau khớp do phong gây ra
2
Phù hoãn
Chứng biểu hàn có ra mồ hôi
3
Phù sác
Chứng biểu nhiệt, chứng phong nhiệt
4
Phù hoạt
Phong đàm, biểu chứng kèm them đàm thấp
5
Trầm trì
Thuộc lý hàn
6
Trầm khẩn
Lý hàn và đau
7
Trầm sác
Lý nhiệt
8
Huyền trì
Hàn gây đau ở kinh mạch can
9
Huyền khẩn
Hàn gây đau và hàn gây ứ trệ ở kinh can
10
Huyền sác
Can nhiệt
11
Trầm hoạt
Đàm ẩm thực tích
12
Trầm huyền
Can uất khí trệ, chứng đau
13
Hồng sác
Nhiệt thịnh ở khí phận
14
Hoạt sác
Đàm nhiệt, đàm hỏa
15
Trầm sáp
Ứ huyết
16
Trầm tế
Lý hư, khí huyết hư, âm hư
17
Trầm tế sác
Âm hư, huyết hư sinh nội nhiệt
18
Huyền tế
Can thận âm hư, âm hư can uất
19
Tế sáp
Huyết hư kèm ứ huyết
20
Nhu hoãn
Bệnh ở tỳ vị, bệnh mãn tính
2. Sờ nắn: Sờ nắn để xem vị trí và tính chất của bệnh, thường xem tại da thịt, tay chân và bụng
a/ Sờ nắn da thịt: Cần chú trọng vào các tính chất sau
* Hàn và nhiệt
- Nóng ở ngoài da, ấn sâu vào giảm: biểu nhiệt .
- Ở ngoài da nóng vừa, càng ấn càng thấy nóng là lý nhiệt
- Lòng bàn tay nóng, cảm giác da nóng bừng bưng nhưng không sốt là hư nhiệt (âm hư hỏa vượng)
* Khô nhuận:
- Da nhuận trơn: tân dịch chưa bị tổn thương
- Da khô táo: tân dịch giảm, ứ huyết.
* Phù: ấn mạnh vết lõm còn là thủy thũng; vết lõm nổi lên ngay là khí thũng
* Mụn nhọt: sưng, không nóng đỏ là âm thư (áp xe lạnh); sưng nóng đỏ đau là dương thư (áp xe nóng)
b/ Sờ nắn tay chân: Chủ yếu là xem về hàn và nhiệt
-         Tay chân lạnh, sợ lạnh là dương hư.
-         Tay chân nóng nhiều và đều là nhiệt thịnh
-         Nóng ở mu bàn tay là do biểu nhiệt (nhiệt thịnh ngoại cảnh)
c/ Sờ nắn bụng(phúc chẩn) tùy theo vị trí xem tạng phủ nào có bệnh, cần trú trọng vào cơn đau, vào ứ trệ của khí huyết, vào hư thực của bệnh tật
- Thiện án (thích xoa bóp) thuộc hư chứng; cự án (không thích xoa bóp) thuộc về thực chứng.
- Bụng có khối rắn, đau, theo vị trí giải phẫu mà có lien tưởng đếm bệnh tương ứng; khối ứ huyết lúc có lúc tan; ấn vào không thấy hình thể, không điểm đau khu trú một nơi nhất định thường do khí trệ.